Vào năm 1919, khi các quốc gia ký Hiệp ước Versailles đã thành lập nên Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với sự ghi nhận thực tế rằng “các điều kiện lao động hiện tại hàm chứa những bất công, nặng nhọc và thiếu thốn đối với rất nhiều người và có thể dẫn đến sự bất ổn tới mức có thể làm tổn hại tới hòa bình và sự hài hòa của thế giới”. Để giải quyết vấn đề này, tổ chức ILO đã thiết lập nên một hệ thống tiêu chuẩn lao động quốc tế (ILS) điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến lao động. Ngay từ năm 1919, những người sáng lập nên ILO đã nhận ra rằng nền kinh tế toàn cầu cần có luật chơi rõ ràng nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế sẽ diễn ra song hành với sự công bằng xã hội, thịnh vượng và hòa bình cho tất cả mọi người. Vì vậy, cho đến nay và kể cả trong tương lai, những nguyên tắc này vẫn giữ nguyên tính phù hợp.
Vào năm 1919, khi các quốc gia ký Hiệp ước Versailles đã thành lập nên Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với sự ghi nhận thực tế rằng “các điều kiện lao động hiện tại hàm chứa những bất công, nặng nhọc và thiếu thốn đối với rất nhiều người và có thể dẫn đến sự bất ổn tới mức có thể làm tổn hại tới hòa bình và sự hài hòa của thế giới”. Để giải quyết vấn đề này, tổ chức ILO đã thiết lập nên một hệ thống tiêu chuẩn lao động quốc tế (ILS) điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến lao động. Ngay từ năm 1919, những người sáng lập nên ILO đã nhận ra rằng nền kinh tế toàn cầu cần có luật chơi rõ ràng nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế sẽ diễn ra song hành với sự công bằng xã hội, thịnh vượng và hòa bình cho tất cả mọi người. Vì vậy, cho đến nay và kể cả trong tương lai, những nguyên tắc này vẫn giữ nguyên tính phù hợp.
ILS được gửi tới các chính phủ. Tuy nhiên, chúng cũng có liên quan đến kinh doanh theo những cách sau:
Với những điều trên, người sử dụng lao động phải đóng một vai trò quan trọng trong ILO và ở cấp quốc gia trong việc xây dựng, thực hiện và giám sát ILS, và trong việc đảm bảo rằng có tính đến quan điểm kinh doanh, bao gồm cả nhu cầu của các doanh nghiệp thuộc mọi quy mô hoạt động ở các khu vực địa lý khác nhau, các khu vực, thành phần kinh tế và khuôn khổ xã hội. Cùng với chính phủ và người lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm làm cho ILS và việc thực hiện của họ trở nên cân bằng, thực tế và có ý nghĩa.
Các tiêu chuẩn lao động quốc tế ILS không phải là câu trả lời cho mọi vấn đề tại nơi làm việc và chỉ nên được sử dụng để giải quyết các vấn đề lao động cơ bản mà chúng có thể có tác động cao. ILS chỉ nên được thông qua khi có các nguyên tắc không thay đổi và khi có sự đồng thuận rộng rãi giữa các thành viên ILO rằng quy định ở cấp độ quốc tế là cần thiết.
Tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO (ILS) là các công cụ pháp lý (văn bản pháp lý) do các thành viên ILO (chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động) soạn thảo, đưa ra các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc. Các tiêu chuẩn này là Công ước, là những điều ước quốc tế ràng buộc về mặt pháp lý có thể được các Quốc gia thành viên ILO phê chuẩn hoặc là các Khuyến nghị, đóng vai trò là hướng dẫn không ràng buộc. Trong nhiều trường hợp, một Công ước đưa ra các nguyên tắc cơ bản được các quốc gia phê chuẩn thực hiện, trong khi một Khuyến nghị liên quan cũng có thể mang tính tự trị (không liên quan đến bất kỳ Công ước nào).
ILS được thông qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế (ILC) và các Quốc gia Thành viên được yêu cầu trình cơ quan có thẩm quyền của mình (thường là quốc hội) để xem xét. Trong trường hợp Công ước, điều này có nghĩa là phải xem xét phê chuẩn. Các quốc gia phê chuẩn cam kết áp dụng Công ước trong luật pháp, thực tiễn quốc gia và báo cáo việc áp dụng Công ước này theo định kỳ cho hệ thống giám sát thường xuyên của ILO. Các thủ tục đại diện và khiếu nại có thể được bắt đầu chống lại các quốc gia do vi phạm Công ước mà họ đã phê chuẩn.
Đến cuối tháng 6 năm 2018, ILO đã thông qua 189 Công ước, 205 Khuyến nghị và 6 Nghị định thư bao gồm một loạt các vấn đề công việc. Các lĩnh vực được ILS điều chỉnh bao gồm: quyền cơ bản của con người, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, tiền lương, thời gian làm việc, chính sách việc làm và thăng tiến, hướng dẫn và đào tạo nghề, phát triển kỹ năng, các loại lao động cụ thể, quản lý và kiểm tra lao động, bảo vệ thai sản và an sinh xã hội, bản địa và những người trong bộ lạc, và những người lao động nhập cư.
Cơ quan điều hành ILO đã xác định tám Công ước sau đây là “cơ bản”, bao gồm các chủ đề được coi là các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc: Quyền tự do hiệp hội và Công ước bảo vệ quyền tổ chức, năm 1948 (số 87); Quyền Tổ chức và Công ước Thương lượng Tập thể, 1949 (Số 98); Công ước lao động cưỡng bức, năm 1930 (số 29); Bãi bỏ Công ước Lao động Cưỡng bức, 1957 (Số 105); Công ước về Tuổi tối thiểu, 1973 (Số 138); Công ước về các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999 (số 182); Công ước về thù lao bình đẳng, 1951 (số 100); và Công ước về Phân biệt đối xử (Việc làm và Nghề nghiệp), 1958 (Số 111).
Các nguyên tắc của các Công ước này cũng được đề cập trong Tuyên bố của ILO về các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc (1998). Năm 1995, ILO đã phát động một chiến dịch để đạt được sự phê chuẩn toàn cầu đối với các Công ước cơ bản này.
Các tác động có lợi của ILS phụ thuộc phần lớn vào việc áp dụng cân bằng và việc thực hiện hợp lý các quyền có trong đó. Việc thực hiện các quyền này phải tôn trọng môi trường kinh tế và xã hội, công ích và các quyền cao hơn của các cá nhân và nhóm khác. Đặc biệt, nhu cầu cạnh tranh của các doanh nghiệp phải được quan tâm đúng mức trong việc thực hiện ILS vì doanh nghiệp là nguồn cung cấp việc làm và do đó, là nơi rất thích hợp cho việc áp dụng ILS.
Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về ý nghĩa của tiêu chuẩn lao động quốc tế cũng như những vấn đề liên quan. Hy vọng sẽ cung cấp cho các bạn các thông tin hữu ích, nếu còn điều gì thắc mắc, hãy liên hệ cho chúng tôi qua hotline 0976.389.199 để được tư vấn và giải đáp chi tiết nhất!
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, trong đó có việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế về lao động là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian gần đây, Việt Nam tích cực phê chuẩn nhiều công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhằm tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ, tiên tiến để xử lý hài hòa các quan hệ lao động. Đây cũng chính là một trong những điều kiện bảo đảm cạnh tranh công bằng khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do và là điều kiện thúc đẩy quá trình hội nhập.
Việt Nam đã và đang trong quá trình xem xét sửa đổi pháp luậtđể tương thích với các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệmới là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTTPP) vàHiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) vừa ký kết. Đâylà hai hiệp định đầu tiên Việt Nam tham gia có các điều khoản về tôn trọng vàthúc đẩy các Tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO.
Tính đến tháng 6/2019, Việt Nam đã phê chuẩn 24 công ướctrong tổng số 189 Tiêu chuẩn lao động của ILO, bao gồm 06 công ước về cácnguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, 18 công ước về quản trị thị trườnglao động và các công ước kỹ thuật khác. Việc gia nhập các công ước này thể hiệncam kết mạnh mẽ của Việt Nam và mang lại cơ hội lớn hơn trong việc nội luậthóa, áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế trong hệ thống luật pháp quốc gia.
Cùng với việc gia nhập các công ước, Việt Nam cũng thể hiệnsự nghiêm túc trong việc nội luật hóa các Tiêu chuẩn lao động quốc tế được đề cậptrong các công ước vào hệ thống luật pháp quốc gia, tiêu biểu là việc ban hànhBộ luật Lao động năm 2019, trong đó nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động, đặcbiệt là các tiêu chuẩn lao động cơ bản của ILO.
1. Tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO
Tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO là những tiêu chuẩn laođộng được quốc tế công nhận, được ban hành dưới hình thức các công ước và khuyếnnghị của ILO do chính các quốc gia thành viên ILO bao gồm các đối tác babên là Chính phủ, tổ chức đại diện của giới chủ và tổ chức đại diệncủa người lao động tham gia xây dựng tại Hội nghị ILO (ILC) thường niêntại Giơ - ne - vơ, Thụy Sĩ. Trong tổng số 189 tiêu chuẩn lao động của ILO, có08 Tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản/cốt lõi bắt buộc các nước với tư cách làthành viên của ILO phải thực hiện.
Tám tiêu chuẩn lao động cốt lõi của ILO được thông qua dướidạng 08 công ước cơ bản của ILO thuộc 04 nhóm vấn đề: (i) Nhóm các công ước vềtự do lập hội và thương lượng tập thể: Công ước số 87 về tự do hiệp hội và việcbảo vệ quyền được tổ chức (Công ước số 87), Công ước số 98 về áp dụng nhữngnguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể (Công ước số 98); (ii)Nhóm các công ước về xóa bỏ các hình thức lao động cưỡng bức: Công ước số 29về lao động cưỡng bức và bắt buộc (Công ước số 29), Công ước số 105 về xóabỏ lao động cưỡng bức (Công ước số 105); (iii) Nhóm các công ước về tiềnlương công bằng và chống phân biệt đối xử: Công ước số 100 về trả công bình đẳnggiữa lao động nam và nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau (Công ước số100), Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp(Công ước số 111); (iv) Nhóm các công ước về tuổi tối thiểu được đi làm việcvà xóa bỏ những hình thức lao động tồi tệ đối với trẻ em: Công ước số 138 vềtuổi tối thiểu được đi làm việc (Công ước số 138), Công ước số 182 về nghiêmcấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Côngước số 182).
Việt Nam đã phê chuẩn 06/08 công ước (bao gồm: Công ước số98, Công ước số 100, Công ước số 111, Công ước số 138, Công ước số 182,Công ước số 29) hai công ước còn lại là Công ước số 105 và Công ước số 87 dựkiến sẽ được phê chuẩn lần lượt vào năm 2020 và 2023.
Công ước số 87 thông qua ngày 09/7/1948. Công ước đã ghi nhậnnguyên tắc rằng: Người lao động và người sử dụng lao động, không phân biệt dướibất kỳ hình thức nào, có quyền được thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựachọn của mình mà không phải xin phép trước, với một điều kiện duy nhất là phảituân theo điều lệ của chính tổ chức đó. Các tổ chức của người lao động và củangười sử dụng lao động có quyền: (i) Lập ra điều lệ và quy tắc, bầu đại diện, tổchức việc điều hành các hoạt động và soạn thảo chương trình hoạt động của mình;(ii) Thành lập và gia nhập các liên đoàn, tổng liên đoàn và mọi tổ chức, liênđoàn hoặc tổng liên đoàn đó đều có quyền gia nhập các tổ chức quốc tế của ngườilao động và người sử dụng lao động. Các tổ chức của người lao động và của ngườisử dụng lao động không thể bị bất cứ một cơ quan hành chính nào buộc phải giảitán hoặc đình chỉ. Các cơ quan công quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tínhchất hạn chế quyền này hoặc cản trở việc thực hiện hợp pháp quyền đó.
Tại Việt Nam, điều này có nghĩa tổ chức của người lao động tạicơ sở có thể lựa chọn gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký vớicơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động. Tổ chức đó sẽ chỉđược hoạt động sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng kýtheo một quy trình minh bạch và được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạmpháp luật. Tổ chức của người lao động, sau khi hoàn tất thủ tục nói trên, sẽ cómột số quyền tự chủ nhất định phù hợp với quy định của ILO và pháp luật ViệtNam.
Mục đích hoạt động của tổ chức đại diện người lao động phảilà để đại diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích của người lao động tại doanhnghiệp mà họ làm việc thông qua các hình thức được quy định trong pháp luật baogồm đối thoại, thương lượng tập thể, đình công và các hành động tập thể kháctrong quan hệ lao động. Các tổ chức của người lao động không được phép tiếnhành bất cứ hoạt động nào có khả năng xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, antoàn xã hội cũng như không được tham gia bất cứ hoạt động nào ngoài tôn chỉ mụcđích phù hợp với quy định của ILO và đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩmquyền.
Công ước số 98 được thông qua ngày 01/7/1949. Theo Điều 1Công ước này, người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọihành vi phân biệt đối xử chống lại việc làm của họ. Hiện nay, vấn đề đại diện,bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích của người lao động, không bị người sửdụng lao động can thiệp và phân biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc làm suy yếukhả năng đại diện, bảo vệ cho quyền lợi của người lao động cũng được đề cập vàquy định rõ ràng. Đồng thời phải đề cao nghĩa vụ thương lượng, thiện chí củangười sử dụng lao động khi tiến hành thương lượng tập thể với tổ chức của ngườilao động về tiền lương và các điều kiện lao động khác cho người lao động.
Ngày 14/6/2019, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 98 với các nộidung cơ bản nhằm đảm bảo thương lượng tập thể giữa người lao động và người sử dụnglao động có thể diễn ra một cách hiệu quả, đó là: (i) Bảo vệ người lao động vàcán bộ công đoàn không bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc; (ii) Bảo đảm chocác tổ chức đại diện của người lao động và người sử dụng lao động không bị canthiệp hoặc chi phối từ bên còn lại; (iii) Những biện pháp thúc đẩy thương lượngtập thể tự nguyện, thiện chí.
Công ước số 29 được thông qua ngày 28/6/1930, gồm 33 điềuquy định các quốc gia thành viên cam kết phải có chính sách quốc gia hủy bỏ việcsử dụng lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc dưới mọi hình thức trong thời gian ngắnnhất.
Khoản 1 Điều 2 Công ước số 29 định nghĩa: Lao động cưỡng bứchoặc bắt buộc là mọi công việc hoặc dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dướisự đe doạ của một hình phạt nào đó và bản thân người đó không tự nguyện làm.
Công ước số 29 cũng quy định các trường hợp ngoại lệ củatình trạng lao động cưỡng bức, bao gồm các công việc hoặc dịch vụ: (i) Có tínhchất quân sự thuần túy; hoặc (ii) là nghĩa vụ công dân bình thường; hoặc (iii)buộc phải thực hiện do quyết định của Tòa án đặt dưới sự giám sát và kiểm tra củacác cơ quan công quyền; hoặc (iv) buộc phải làm do tình trạng khẩn cấp như chiếntranh, động đất, dịch bệnh…; hoặc (v) là những công việc nhỏ phục vụ cộng đồng.
Công ước số 105 được thông qua ngày 25/06/1957 đã ghi nhận rằng,mọi nước thành viên của ILO phê chuẩn Công ước này cam kết bãi bỏ lao động cưỡngbức hoặc bắt buộc và cam kết không sử dụng bất kỳ hình thức nào của loại lao độngđó (Điều 1). Công ước số 105 nhấn mạnh chi tiết rằng, lao động cưỡng bức khôngbao giờ được áp dụng như một biện pháp cưỡng chế hoặc giáo dục bắt buộc; như mộtsự trừng phạt vì bày tỏ quan điểm chính trị hoặc tham gia đình công; như mộthình thức kỷ luật lao động; như một sự phân biệt đối xử về chủng tộc, xã hội,dân tộc hoặc tôn giáo; hoặc như một phương thức huy động nhân công vì mục đíchphát triển kinh tế.
Công ước số 105 là công ước cùng cặp với Công ước số 29trong nhóm tiêu chuẩn quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức (Việt Nam đã gia nhậpCông ước số 29 năm 2007). Tính đến ngày 19/02/2020, trên thế giới đã có 173trên tổng số 187 quốc gia thành viên của ILO tham gia Công ước này.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường hội nhập kinh tế quốctế sâu rộng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc gia nhậpCông ước số 105 là rất cần thiết và có ý nghĩa trên tất cả các mặt chính trị,pháp lý và kinh tế - xã hội; phù hợp với xu thế tiến bộ chung của thế giới, thểhiện những cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề liên quanđến lao động của Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Ngày 07/02/2020, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã đệ trình lênChính phủ hồ sơ về việc xem xét gia nhập Công ước số 105[1]. Dự kiến hồ sơ nàysẽ được Chính phủ trình lên Chủ tịch nước để trình sang Ủy ban Thường vụ Quốc hộivào tháng 4/2020 và trình Quốc hội vào tháng 5/2020.
Công ước số 100 thông qua ngày 29/6/1951. Công ước quy địnhmỗi thành viên, bằng những biện pháp thích hợp với các phương pháp hiện hànhtrong việc ấn định mức tiền công, phải khuyến khích và trong chừng mực phù hợpvới các phương pháp ấy, bảo đảm việc áp dụng cho mọi người lao động nguyên tắctrả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ đối với công việc có giá trịngang nhau. Nguyên tắc này có thể được áp dụng bằng pháp luật hoặc quy định quốcgia, bằng cơ chế ấn định tiền lương đã được thiết lập hay công nhận về mặt pháplý, bằng thỏa ước tập thể giữa người sử dụng lao động và người lao động hoặc bằngcách kết hợp những biện pháp đó. Việt Nam phê chuẩn Công ước này ngày7/10/1997.
Công ước số 111 được thông qua ngày 25/6/1958. Công ước quyđịnh, thành viên của Công ước này cam kết tuyên bố và theo đuổi một chính sáchquốc gia, bằng những phương pháp phù hợp với hoàn cảnh và thực tiễn quốc gia,nhằm thúc đẩy bình đẳng về cơ hội và về đối xử trong việc làm và nghề nghiệp đểxóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử về mặt này. Mỗi thành viên Công ước phải có cácbiện pháp phù hợp với hoàn cảnh và thực tiễn quốc gia để: (i) Đạt được sự hợptác của các tổ chức của người sử dụng lao động, của người lao động và các tổ chứcthích hợp khác nhằm đẩy mạnh việc chấp nhận và thực hiện chính sách này; (ii)Ban hành pháp luật và thúc đẩy các chương trình giáo dục nhằm đảm bảo việc chấpnhận và thực hiện chính sách này; (iii) Hủy bỏ mọi quy định pháp luật và sửa đổimọi hướng dẫn hoặc thủ tục hành chính không phù hợp với chính sách đó; (iv)Theo đuổi chính sách việc làm với sự kiểm soát trực tiếp của một cơ quan có thẩmquyền cấp quốc gia; (v) Bảo đảm sự tuân thủ chính sách trong hoạt động của cáctổ chức hướng nghiệp, dạy nghề và sắp xếp việc làm theo chỉ đạo của cơ quan nhànước có thẩm quyền cấp quốc gia; (vi) Thể hiện trong báo cáo hàng năm của mìnhvề việc áp dụng Công ước này những biện pháp đã sử dụng để theo đuổi chính sáchđó và kết quả đã đạt được. Việt Nam phê chuẩn Công ước số 111 năm 1997
Công ước số 138 được thông qua ngày 26/7/1973. Điều 1 Công ướcsố 138 ghi rõ: “Mọi nước thành viên chịu hiệu lực của Công ước này cam kết theođuổi một chính sách quốc gia, nhằm bảo đảm thật sự việc bãi bỏ lao động trẻ emvà nâng dần tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được lao động tới độ tuổi màcác thiếu niên có thể phát triển đầy đủ nhất về thể lực và trí lực”. Khoản 1 Điều2 Công ước này quy định: Mọi thành viên phê chuẩn Công ước này, trong bản tuyênbố kèm theo văn bản phê chuẩn, sẽ phải ghi rõ tuổi tối thiểu được đi làm việchoặc được đi lao động trên lãnh thổ của mình và trên các phương tiện giao thôngcó đăng kiểm trên lãnh thổ của mình; theo quy định tại các Điều từ 4 đến 8 Côngước này, không một ai ở tuổi dưới mức tối thiểu đó được đi làm việc hoặc đượclao động trong bất cứ nghề nào.
Xét thấy các nội dung của Công ước phù hợp với lợi ích chungcủa nhân loại và phù hợp với lợi ích của Việt Nam, nên ngày 24/6/2003 Chính phủViệt Nam đã phê chuẩn Công ước này.
Công ước số 182 được thông qua ngày 17/6/1999, mỗi một thànhviên phê chuẩn Công ước này sẽ áp dụng những biện pháp tức thời và hữu hiệu đểđảm bảo việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như mộtvấn đề khẩn cấp. Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ được áp dụng cho tấtcả những ai dưới 18 tuổi.
Công ước quy định các hình thức lao động bị coi là tồi tệ nhấtđối với trẻ em phải xóa bỏ là: (i) Tất cả những hình thức nô lệ hay những hànhđộng tương tự như nô lệ, như buôn bán trẻ em, gán nợ, nông nô hoặc lao động cưỡngbức hay bắt buộc, bao gồm cả việc tuyển mộ trẻ em cưỡng bức hoặc bắt buộc để sửdụng trong xung đột vũ trang; (ii) Việc sử dụng, mua bán hay chào mời trẻ emcho mục đích mại dâm, cho việc sản xuất sách báo hay các chương trình khiêudâm; (iii) Việc sử dụng mua bán hay chào mời trẻ em cho các hoạt động bất hợppháp, đặc biệt cho việc sản xuất và buôn lậu ma tuý như đã được định nghĩatrong các hiệp ước quốc tế liên quan; (iv) Những công việc có khả năng làm hạiđến sức khoẻ, sự an toàn hay đạo đức của trẻ em, do bản chất của công việc haydo hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc.
2. Tình hình thực hiện các Tiêu chuẩn lao động quốc tế tại Việt Nam
Việc phê chuẩn hay gia nhập các công ước quốc tế là công việcquan trọng, cần có sự cân nhắc thấu đáo để phù hợp với điều kiện, đặc điểm vàvì lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, Điều 2 Tuyên bố 1998 của ILO đã khẳng định rằng,các quốc gia thành viên ILO, dù đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn 08 công ước cơbản đều có nghĩa vụ phải tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện 08 công ước này một cáchthiện chí. Đây là sự khác biệt cơ bản về mặt nghĩa vụ tuân thủ giữa 08 công ướccơ bản với các công ước khác của ILO. Như vậy, ngoài việc phải thực hiện đầy đủnội dung của 06 công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam đã phê chuẩn, thì Việt Namvới tư cách là thành viên của ILO có nghĩa vụ phải tôn trọng, thúc đẩy và thựchiện một cách thiện chí đối với 02 công ước cơ bản còn lại của ILO mà Việt Namchưa phê chuẩn. Hơn nữa, các Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên TháiBình Dương (CTTPP) TPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh ChâuÂu (EVFTA) đều có các quy định về tiêu chuẩn lao động, đòi hỏi Việt Nam phải sửađổi pháp luật cho phù hợp và thực hiện trong thực tiễn, để được hưởng lợi íchthương mại trong các hiệp định. Bên cạnh cơ chế giám sát của ILO, các hiệp địnhnày đều có các cơ chế giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế ởcác quốc gia thành viên.
Việt Nam tham gia trở lại tư cách thành viên của ILO từ năm1992. Từ đó đến nay, Việt Nam tích cực thực hiện các Tiêu chuẩn lao động quốc tế,hoàn thiện thể chế quản trị thị trường lao động… Riêng trong năm 2019, Việt Namđã phê chuẩn 03 công ước của ILO, bao gồm: Công ước số 88 về tổ chức dịch vụ việclàm, Công ước số 159 về tái thích ứng việc làm cho người khuyết tật, đặc biệtlà Công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể (01 trong 08 công ướccơ bản của ILO). Cùng với việc gia nhập các công ước, Việt Nam cũng thể hiện sựnghiêm túc trong việc nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế được đề cậptrong các công ước vào trong hệ thống luật pháp quốc gia.
Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thể hiện cam kết của mìnhtrong việc tiếp tục gia nhập và thực hiện các tiêu chuẩn lao động của ILO thôngqua nhiều văn kiện, kế hoạch, chương trình hành động như: Nghị quyết số 06-NQ/TWngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiếntrình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnhnước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (Nghị quyết số06-NQ/TW); Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 25/4/2017 của Chính phủ ban hành chươngtrình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW; Nghị quyết số121/QĐ-TTg ngày 24/ 01/2019 của Thủ tướngChính phủ phê duyệt kế hoạch Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên TháiBình Dương (CPTPP); Quyết định số 2528/QĐ-TTg ngày 31/12/2015 của Thủ tướngChính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện và đề xuất gia nhập các công ước củaLiên hợp quốc và của Tổ chức Lao động quốc tế trong lĩnh vực lao động - xã hộigiai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày 20/01/2016 của Thủ tướngChính phủ phê duyệt chiến lược hội nhập quốc tế về lao động - xã hội đến năm2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấphành Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức,viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp và Nghị quyếtsố 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sáchbảo hiểm xã hội.
Theo các văn kiện và các chương trình, kế hoạch hành độngnêu trên, Việt Nam cam kết sửa đổi hệ thống luật pháp (trong đó có Bộ luật Laođộng) và tiếp tục nghiên cứu đề xuất gia nhập các công ước của ILO, trong đó có02 công ước cơ bản là Công ước 105 về lao động cưỡng bức (dự kiến 2020), Công ước87 về tự do liên kết (dự kiến 2023) và 06 công ước kỹ thuật khác về tiền lươngvà một số nhóm lao động yếu thế.
Để tiếp tục nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO, ngày 20/11/2019, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) (sau đây gọi là Bộ luật Lao động năm 2019). Những chính sách lao động của Nhà nước ta được cụ thể hóa trong nội dung của Bộ luật Lao động năm 2019 được các chuyên gia của ILO đánh giá cao. Theo Tiến sĩ Chang - Hee Lee, Giám đốc ILO tại Việt Nam, việc ban hành Bộ luật Lao động năm 2019 đã đưa khuôn khổ pháp luật Việt Nam tiệm cận hơn các tiêu chuẩn lao động quốc tế; tạo khung pháp luật hoàn thiện hơn cho quan hệ việc làm, điều kiện lao động và chức năng đại diện của người sử dụng lao động và người lao động. Bộ luật Lao động sửa đổi lần này chú trọng hơn tới việc thực hiện thương lượng tập thể tự nguyện, một công cụ cần thiết đối với một nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình hội nhập toàn cầu sâu rộng. Cùng với quyền tự do hiệp hội, xóa bỏ phân biệt đối xử, lao động trẻ em và lao động cưỡng bức là bốn nguyên tắc được đặt ra trong 08 Công ước cơ bản của ILO trong khuôn khổ Tuyên bố 1998. Giám đốc ILO tại Việt Nam nhận định, Bộ luật Lao động năm 2019 đóng vai trò quan trọng, mở đường cho việc thực hiện một cách đầy đủ Tuyên bố 1998 của ILO, bởi Bộ luật tạo khung pháp luật tốt hơn về việc làm và quan hệ lao động, góp phần đáng kể để đạt được tiến bộ về việc làm thỏa đáng cho mọi người lao động, cả nam và nữ, giúp tăng trưởng công bằng và bền vững. Cụ thể:
Một là, về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể: Tiếnbộ lớn nhất đạt được trong việc tiệm cận hơn với các Tiêu chuẩn Lao động Quốc tếcủa Bộ luật Lao động năm 2019 là khả năng người lao động tại doanh nghiệp đượcquyền thành lập hay tham gia một tổ chức đại diện do họ lựa chọn, không nhấtthiết phải là thành viên của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Giám đốc ILO tại Việt Nam giải thích: “Tự do hiệp hội là một quyền cơ bản được nêu trong Tuyên bố về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động năm 1998 của ILO. Tự do hiệp hội giúp cải thiện quá trình thương lượng tập thể, cho phép người lao động được hưởng lợi ích công bằng hơn và cho phép doanh nghiệp thỏa thuận những cải thiện năng suất cần thiết”.
Quy định thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệpkhông thuộc tổ chức Công đoàn Việt Nam nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đạidiện, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động, phù hợpvới các công ước của ILO, các cam kết quốc tế khác và tạo thuận lợi trong quátrình hội nhập quốc tế.
Hai là, về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong lao động:Điểm tiến bộ của Bộ luật Lao động năm 2019 cũng được thể hiện ở những địnhnghĩa mới về phân biệt đối xử trong lao động và quấy rối tình dục tại nơi làmviệc. Theo đó, phân biệt đối xử trong lao động là hành vi phân biệt, loại trừhoặc ưu tiên dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội,dân tộc, giới tính, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tôngiáo, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình hoặc trên cơ sởtình trạng nhiễm HIV hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn,tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có tác động làm ảnh hưởng đến bìnhđẳng về cơ hội việc làm hoặc nghề nghiệp. Việc phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiênxuất phát từ yêu cầu đặc thù của công việc và các hành vi duy trì, bảo vệ việclàm cho người lao động dễ bị tổn thương thì không bị xem là phân biệt đối xử(khoản 8 Điều 3). Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chấttình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không đượcngười đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người laođộng thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động(khoản 9 Điều 3).
Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép người lao động được đơnphương nghỉ việc với điều kiện có thông báo trước một cách phù hợp. Cụ thể Điều35 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người lao động được quyền đơn phương chấmdứt hợp đồng không cần lý do mà chỉ cần báo trước 30 ngày với hợp đồng xác địnhthời hạn và 45 ngày với hợp đồng không xác định thời hạn.
Thậm chí, trong một số trường hợp, người lao động còn đượcđơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước, như: Không được bố trítheo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việctheo thỏa thuận; không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bịngười sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ,hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc; lao động nữ mang thai phải nghỉ việc; đủtuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; người sử dụng lao độngcung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồnglao động. Đồng thời, người lao động cũng được quyền yêu cầu người sử dụng lao độngcung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của mình khi chấmdứt hợp đồng lao động; các chi phí của việc cung cấp do người sử dụng lao độngchi trả...
Ba là, về xóa bỏ lao động trẻ em: Những quy định của Bộ luậtLao động năm 2019 về lao động trẻ em cơ bản đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn,phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan, cụ thể là các tiêu chuẩn theoCông ước của Liên hợp quốc tế quyền trẻ em (CRC), Công ước số 138 về tuổi tốithiểu được đi làm việc và Công ước số 182 về xóa bỏ những hình thức lao động trẻem tồi tệ nhất.
Bốn là, về xóa bỏ lao động cưỡng bức: Bộ luật Lao động năm2019 đưa ra hướng dẫn chi tiết hơn về cưỡng bức lao động và lao động chưa thànhniên, giúp người sử dụng lao động hiểu rõ hơn những gì được pháp luật cho phépvà không cho phép, cũng như và giúp tăng cường năng lực của thanh tra lao độngtrong việc tư vấn và thực thi pháp luật trong những lĩnh vực này.
Những nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập lao động quốctế nhận được những đánh giá tích cực từ cộng đồng quốc tế. Họ cho rằng, ViệtNam đã đạt được những bước tiến lớn trong việc phê chuẩn các công ước cơ bản củaILO cũng như việc thông qua Bộ Luật Lao động năm 2019 thể hiện thiện chí và nhữngnỗ lực có hiệu quả của Việt Nam.
3. Một số khuyến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả các tiêu chuẩn lao động quốc tế trong thời gian tới
Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã nội luật hóa các công ước cơbản mà Việt Nam đã phê chuẩn. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm trong pháp luật ViệtNam chưa tương thích và việc thực hiện trong thực tiễn chưa thực sự hiệu quả cầntiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và tăng cường thực thi cho phù hợp vớiTiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp,xóa bỏ lao động trẻ em, xóa bỏ lao động cưỡng bức.
Việt Nam từ trước đến nay luôn là nước có hệ thống pháp luật rất rộng trên giấy tờ. Tuy nhiên, khi càng đưa nhiều vào luật trong bối cảnh các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng hóa, thì lại càng khó để mọi người trong nền kinh tế tuân thủ theo các tiêu chuẩn được quy định trong pháp luật. Vì thế, Việt Nam cần thiết phải thực hiện một sự chuyển dịch quan trọng hướng tới chú trọng hơn vào tầm quan trọng của hợp đồng lao động, để cho phép người sử dụng lao động và người lao động, cả ở góc độ cá nhân và tập thể, có thể thương lượng về điều kiện làm việc phù hợp nhất với tình hình của họ. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần phải thay đổi, nhưng sự thay đổi đó không phải là ban hành thêm nhiều quy định trên giấy tờ, mà phải đảm bảo những nội dung được quy định đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động.
Việt Nam cần tiếp tục những vấn đề liên quan đến thúc đẩy bìnhđẳng. Có thể nhận thấy, ngày nay bất bình đẳng gia tăng ở mọi nơi trên thế giới,đặc biệt là bất bình đẳng thu nhập và bất bình đẳng về cơ hội. Việt Nam là mộtxã hội đang già hóa, vì vậy, một trong những vấn đề đặt ra là phải tăng năng suất,phải nâng cao trình độ kỹ năng để tận dụng tốt nhất tiềm năng về năng suất laođộng của mỗi người. Điều đó có nghĩa là cần thêm nhiều người phụ nữ có thể hiệnthực hóa tiềm năng của mình trên thị trường lao động và được đền đáp xứng đáng.Nhưng điều này cũng có nghĩa là nhiều điều khoản theo cách tiếp cận tính bảo vệtrong Bộ luật Lao động cần tiếp tục được hoàn thiện, đó là: Trợ cấp thai sản cầnđược củng cố, khả năng tiếp cận với dịch vụ giúp việc gia đình với giá hợp lý,bảo vệ chống quấy rối tình dục và mở ra nhiều hơn cơ hội cho phụ nữ trong cácngành nghề và hoạt động kinh tế mà trước đây không cho phép phụ nữ tham gia vìmục đích bảo vệ.
Chỉ ra một số hạn chế trong việc nhận thức về các Tiêu chuẩn lao động quốc tế của Việt Nam, bà Andrea Prince - Cố vấn trưởng của Dự án Khuôn khổ lao động mới của ILO cho rằng, Việt Nam hiện chưa có hệ thống giám sát các tiêu chuẩn lao động quốc tế ở cấp quốc gia. Bên cạnh đó, việc phối kết hợp giữa các đối tác ba bên trong áp dụng và báo cáo tình hình áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế vẫn còn mang tính hình thức. Theo bà Andrea Prince, các quốc gia cần dần thay đổi nhận thức về việc áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế, bởi lẽ việc phê chuẩn các Công ước sẽ thiết lập thỏa thuận quốc tế về các quyền lao động cơ bản; đặt ra nền tảng tối thiểu cho cạnh tranh công bằng ở cấp quốc gia và quốc tế; tạo một khuôn khổ quốc tế nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế toàn cầu mang lại lợi ích cho tất cả mọi người; bảo đảm sức khỏe, phúc lợi và tiếng nói của người lao động, tạo điều kiện để người lao động đòi hỏi các nhu cầu chính đáng khác.
Bộ luật Lao động năm 2019 đóng vai trò quan trọng, mở đườngcho việc thực hiện một cách đầy đủ Tuyên bố 1998 của ILO, bởi bộ luật tạo khungpháp luật tốt hơn về việc làm và quan hệ lao động, giúp tăng trưởng công bằngvà bền vững, trong bối cảnh Việt Nam đang phấn đấu trở thành quốc gia có thu nhậptrung bình cao. Mặc dù vậy, cũng như ở nhiều nước khác, Bộ luật này vẫn còn cónhững khoảng cách và nội dung có thể tiếp tục cải thiện.
Bên cạnh đó, vẫn còn có khoảng cách trong việc thực hiện đầyđủ các nguyên tắc liên quan đến chống phân biệt đối xử và bình đẳng giới tronglao động. Ngoài ra, quyền tự do hiệp hội trong bộ luật hiện chỉ áp dụng đối vớingười lao động trong doanh nghiệp, nên sẽ cần phải được mở rộng phạm vi trongnhững năm tới đây, để song hành với những nỗ lực của Chính phủ hướng tới phêchuẩn Công ước số 87 của ILO vào năm 2023. Tuy nhiên, vấn đề cần chú trọng trướcmắt là việc giải thích các điều khoản mới thông qua việc ban hành các nghị địnhhướng dẫn và thiết lập các thiết chế thực chất để áp dụng và triển khai.
Nhằm tiếp tục thúc đẩy quá trình tiếp tục hoàn thiện pháp luậtlao động trong nước, đồng thời thực thi có hiệu quả các Tiêu chuẩn lao động quốctế của ILO, góp phần vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, trong thờigian tới, Việt Nam cần thực hiện một số công việc sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, nội luật hóa Tiêu chuẩn lao độngquốc tế của các công ước vào pháp luật trong nước, đặc biệt là 06 công ước cơ bảnmà Việt Nam đã phê chuẩn.
Hai là, triển khai thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ để đảmbảo việc thi hành các quy định của các công ước đã phê chuẩn và pháp luật trongnước tương ứng; tiến hành áp dụng trực tiếp quy định của các công ước đã cụ thểtheo quy định của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế, màkhông cần chờ việc nội luật hóa vào pháp luật trong nước.
Ba là, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quyđịnh của công ước đến cơ quan, tổ chức, người dân và doanh nghiệp.
Bốn là, tiếp tục nghiên cứu các công ước cơ bản còn lại chưa phê chuẩn như Công ước 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc, Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức để phê chuẩn vào thời điểm thích hợp.
/giam-50-le-phi-truoc-ba-khi-mua-xe-san-xuat-trong-nuoc.html
HÀ NỘI – Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Chính phủ Việt Nam vừa ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác thúc đẩy các tiêu chuẩn lao động quốc tế tại Việt Nam trong 10 năm tới.
Bản ghi nhớ cho giai đoạn 2021-2030 được đại diện ILO Việt Nam và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) đặt bút ký vào ngày 20 tháng 5 tại Hà Nội.
Theo đó, hai bên đồng ý hợp tác nhằm thúc đẩy việc gia nhập và thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế tại Việt Nam thông qua một khuôn khổ hợp tác giữa Bộ LĐTBXH và ILO Việt Nam, và đảm bảo sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động trong suốt quá trình này.
Nội dung hợp tác bao gồm nâng cao nhận thức về tiêu chuẩn lao động quốc tế, tăng cường nội luật hóa, thực thi các công ước của ILO mà Việt Nam đã gia nhập, thúc đẩy năng lực quốc gia thực hiện và báo cáo việc thực thi các công ước đã phê chuẩn, theo dõi, đánh giá việc thực thi, và đề xuất đưa ra các khuyến nghị gia nhập thêm các công ước khác.
“Việc ký kết Bản ghi nhớ là một tiền đề quan trọng đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hợp tác giữa Bộ LĐTBXH và Văn phòng ILO tại Việt Nam để thúc đẩy các tiêu chuẩn lao động quốc tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động và xã hội, đồng thời khẳng định việc hội nhập ngày càng sâu rộng, thực chất của Việt Nam trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến nhiều thay đổi, đặc biệt là về các vấn đề liên quan đến lao động,” Bộ trưởng Bộ LĐTBXH, Đào Ngọc Dung, phát biểu tại buổi lễ.
Đồng tình với Bộ trưởng, Giám đốc ILO Việt Nam, Chang-Hee Lee, cho rằng việc ký kết Bản ghi nhớ thể hiện cam kết của Việt Nam nhằm hiện đại hóa pháp luật lao động và xã hội theo hướng phù hợp với các nguyên tắc phổ quát được đề cập trong các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO.
Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia dẫn đầu trong số các nước ASEAN trong việc thúc đẩy tiêu chuẩn lao động quốc tế."
“Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia dẫn đầu trong số các nước ASEAN trong việc thúc đẩy tiêu chuẩn lao động quốc tế. Tôi tin rằng điều này sẽ giúp nâng tầm xã hội – một yếu tố cần thiết để Việt Nam có thể hướng tới trở thành một quốc gia thu nhập trung bình cao,” Tiến sỹ nói.
Đến thời điểm này, Việt Nam đã gia nhập 25 công ước của ILO, bao gồm 7 trong tổng số 8 công ước cơ bản liên quan đến các lĩnh vực thương lượng tập thể, phòng chống phân biệt đối xử, lao động trẻ em và lao động cưỡng bức. Theo Bản ghi nhớ, Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục nghiên cứu việc gia nhập thêm các công ước của ILO phù hợp với yêu cầu, điều kiện và thực tiễn kinh tế xã hội của Việt Nam.
Kể từ năm 1919, ILO đã và đang duy trì và phát triển một hệ thống các tiêu chuẩn lao động quốc tế nhằm đặt ra các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, các tiêu chuẩn lao động quốc tế trở thành một cấu phần quan trọng của khung khổ quốc tế nhằm đảm bảo rằng tự do thương mại đi đôi với việc bảo vệ các quyền lao động cơ bản được đề cập tới trong Tuyên bố năm 1998 của ILO về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động.
Các tiêu chuẩn lao động quốc tế được xây dựng bởi các đối tác ba bên của ILO, bao gồm chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động. Tiêu chuẩn lao động quốc tế tồn tại theo hình thức Công ước (hoặc Nghị định thư) – là những hiệp ước quốc tế mang tính ràng buộc về pháp lý khi được quốc gia thành viên phê chuẩn, hoặc dưới dạng Khuyến nghị – là những hướng dẫn không mang tính ràng buộc.
Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) cho biết, lần đầu tiên Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản tổ chức “Ngày Lao động Việt Nam tại Nhật Bản”.
Thời gian diễn ra Ngày hội từ 12 giờ 30 đến 17 giờ ngày 8/12/2024 (chủ nhật) tại Hội trường tầng 5 Hollywood Plaza, Roppogi Hills, Tokyo, Nhật Bản
Ngày Lao động Việt Nam tại Nhật Bản” diễn ra từ 12 giờ 30 đến 17 giờ ngày 8/12/2024 (chủ nhật) tại Hội trường tầng 5 Hollywood Plaza, Roppogi Hills, Tokyo, Nhật Bản
Chủ trì Ngày hội có lãnh đạo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản.
Chương trình nhằm tăng cường thông tin, tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho thực tập sinh, người lao động Việt Nam đang làm việc tại Nhật Bản, biểu dương và khen tặng những thực tập sinh, người lao động ưu tú, tăng cường sự gắn kết trong cộng đồng người lao động Việt Nam tại Nhật Bản,
Cục Quản lý lao động ngoài nước đề nghị các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thông báo tới người lao động do doanh nghiệp đưa đi đang làm việc tại Nhật Bản biết và thu xếp tham dự. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp có nhiều lao động đang làm việc tại Nhật Bản bố trí tham gia hoạt động nêu trên để cùng động viên, khích lệ người lao động thực hiện tốt hợp đồng trong thời gian làm việc tại nước này.
Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, hợp tác lao động Việt Nam-Nhật Bản đã triển khai từ năm 1992. Đến cuối năm 2023, đã có hơn 500 nghìn lao động Việt Nam sang làm việc tại Nhật Bản theo các chương trình: thực tập kỹ năng; lao động đặc định; đưa ứng viên điều dưỡng, hộ lý Việt Nam sang Nhật Bản làm việc trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (EPA); lao động là kỹ thuật viên, phiên dịch viên.
Năm 2023, Việt Nam đã ghi dấu ấn tại thị trường lao động này với số lượng lao động nước ta tăng cao nhất từ trước đến nay về cả số lượng lao động phái cử lao động hằng năm sang Nhật Bản (với hơn 80 nghìn người) và cả số lượng đang làm việc tại Nhật Bản (hơn 300 nghìn người).
Việt Nam cũng là quốc gia đứng đầu cả về mặt số lượng sang làm việc hằng năm cũng như tổng số lao động đang làm việc tại Nhật Bản trong số 15 nước phái cử thực tập sinh/lao động sang Nhật Bản.
Còn qua 10 tháng đầu năm 2024, thị trường Nhật Bản tiếp nhận gần 63 nghìn lao động Việt Nam.
Năm 2023, Việt Nam đã ghi dấu ấn tại thị trường lao động này với số lượng lao động nước ta tăng cao nhất từ trước đến nay về cả số lượng lao động phái cử lao động hằng năm sang Nhật Bản (với hơn 80 nghìn người) và cả số lượng đang làm việc tại Nhật Bản (hơn 300 nghìn người).