Hồi Ức Lính Đặc Công Chiến Trường K

Hồi Ức Lính Đặc Công Chiến Trường K

(Baothanhhoa.vn) - Quảng Trị năm 1972 là đất của bom pháo và chết chóc. Đã có biết bao tác phẩm viết về mảnh đất anh hùng và đau thương ấy. Từ đất lửa Quảng Trị, xuất hiện thế hệ các nhà văn, nhà thơ mặc áo lính, như Anh Ngọc, Nguyễn Thụy Kha, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Trung Thu, Nguyễn Đức Mậu, Trần Lê An, Nguyễn Hồng Hà... những người đã sống chiến đấu ở chiến trường ác liệt này.

(Baothanhhoa.vn) - Quảng Trị năm 1972 là đất của bom pháo và chết chóc. Đã có biết bao tác phẩm viết về mảnh đất anh hùng và đau thương ấy. Từ đất lửa Quảng Trị, xuất hiện thế hệ các nhà văn, nhà thơ mặc áo lính, như Anh Ngọc, Nguyễn Thụy Kha, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Trung Thu, Nguyễn Đức Mậu, Trần Lê An, Nguyễn Hồng Hà... những người đã sống chiến đấu ở chiến trường ác liệt này.

Hình ảnh về ký ức hào hùng của những người lính Trường Sơn

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những người lính Trường Sơn đã vượt qua “mưa bom, bão đạn” của quân thù để “Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước”.

Ký ức về nơi mà mình đã chôn nhau cắt rốn, tôi nghĩ rằng như lửa giấu trong tro, dù thế nào, cứ âm ỉ hơi nóng, cứ thế đi theo năm tháng đời người. Chính vì thế, vùng đất ấy, có thể nhìn từ nhiều lăng kính, qua góc nhìn của nhiều người. Với tôi, dù phiêu bạt ngụ cư nơi khác nhưng Đà Nẵng mãi mãi là chốn tìm về.

1. Ký ức về nơi mà mình đã chôn nhau cắt rốn, tôi nghĩ rằng như lửa giấu trong tro, dù thế nào, cứ âm ỉ hơi nóng, cứ thế đi theo năm tháng đời người. Chính vì thế, vùng đất ấy, có thể nhìn từ nhiều lăng kính, qua góc nhìn của nhiều người. Với tôi, dù phiêu bạt ngụ cư nơi khác nhưng Đà Nẵng mãi mãi là chốn tìm về. Không quên. Vẫn lãng du trong trí nhớ. Có dịp lại nhớ, nhất là những lúc xuân về Tết đến. Khoảng thời gian này, trong không khí Đoàn Tụ, Sum Họp lúc đất trời vào xuân, con người ta thường có tâm lý “ăn cơm mới, nói chuyên cũ”. Chuyện cũ xưa ấy không quên vì đã là một phần máu thịt đời người.

Xuân này, tôi quay về Đà Nẵng ngày xưa, qua hồi ức của anh ruột tôi - Lê Minh Tâm (1953-2017), cựu học sinh trường trung học Sao Mai. Qua di cảo Khêu ngọn đèn xanh của anh, những trang viết mộc mạc, ít nhiều cho thấy vài nét của Đà Nẵng của thập niên 1960. Nay nhìn lại, để thấy quê mình trong hiện tại đã thay đổi nhiều lắm, tất nhiên, cuộc sống này là một sự vận động theo chiều hướng ngày một tốt hơn, mới hơn, chứ không thể dẫm chân tại chỗ.

2. Ngày tháng đi bộ đội, trên quê hương Chùa Tháp, nằm trên chiếc võng toòng teng dưới tàng cây thốt nốt, hễ dịp Tết sau khi đã im tiếng súng, tôi lại nhớ về ngôi nhà của mình. Một nỗi nhớ rất đỗi tự nhiên là bao giờ cũng hiện rõ mồn một về cây đa trên đường Triệu Nữ Vương, ngay góc đường Nguyễn Trãi. Xét về tên gọi thì đường Triệu Nữ Vương thời Pháp có tên Rue Labée được đổi tên từ năm 1958, đây cũng là năm con lộ nhỏ nối liền đường Trần Bình Trọng đến đường Ông Ích Khiêm mới được đặt tên đường Nguyễn Trãi.

Cây đa này ngự trị ngay tại đình làng phường Hải Hạc (quận Hải Châu), nơi đây có ngôi trường làng, tôi đã học vỡ lòng tại nơi này, còn nhớ cô giáo ngày đầu khai tâm cho tôi tên là Thân.

Nơi con đường Triệu Nữ Vương, từ năm 1955, sau khi hòa bình lập lại, từ vùng kháng chiến Cây Sanh (Tam Kỳ) ba mẹ tôi hồi cư lập nghiệp và mua đất làm nhà. Anh tôi kể: “Trên miếng đất này, chủ cũ trồng mấy cây kiền kiền (còn gọi cây dái ngựa) to lắm. Ba tôi cho hạ để lấy gỗ làm đòn và rui mè lợp ngói. Những khúc còn thừa lại ba tôi thuê thợ cắt ra làm mười mấy cái thớt, mang về xóm cũ ông ngoại tôi tặng mỗi gia đình hàng xóm một cái để làm kỷ niệm”.

Chi tiết về cây kiền kiền rất đáng lưu ý, khi lớn lên tôi còn được thấy trên các con đường Thống Nhất, Lê Lợi, Đống Đa, Nguyễn Thị Giang... Cây kiền kiền, thân cao lớn, tán lá rộng, che râm mát cả con đường; đặc biệt loại cây này có hoa xòe ra bốn cánh trông ngộ nghĩnh.

Về cây đa trên đường Triệu Nữ Vương - anh tôi kể: “Hằng năm, đến mùa đông, cây rụng hết lá, cành nhánh khô quắt vươn lên bầu trời xám xịt như những bàn tay của ông khổng lồ, nhìn vào như cây đã chết khô. Vậy mà đến mùa xuân, lộc ra đầy tất cả mọi nhánh, một đêm đến sáng đã thấy cây hồi sinh. Những lộc non nhú ra màu đỏ tươi rất đẹp mắt. Vài ngày sau lá non bắt đầu nở từ lộc non này, một màu xanh lá chuối non phủ tất cả mấy cành cây, giống in như một bầy ngựa nhà trời đậu trên cây vậy. Sau cỡ một tuần lá đa lớn dần ra to bằng bàn tay và trở màu xanh đậm. Sự tuần hoàn thay lá này diễn ra hết năm này qua năm nọ.

Trên nhành những trái xanh mọc chi chít. Hồi ấy bọn tôi được mấy anh lớn làm cây khoèo xuống cho ăn, trái cây đa non ăn có vị chát chát chua chua, chấm với muối ngon không chi bằng. Dưới gốc cây đa, bá tánh hay đem lễ vật cúng đất ra đặt ở đây. Người ta lấy một cái bẹ chuối, gấp làm đôi dài khoảng 30-40 phân, bên trong bỏ đồ cúng vào, thường là một ít rau muống hay rau khoai, một vài cái trứng gà, trái bắp, một cục thịt heo, một ít đậu phụng luộc, củ sắn, củ khoai lang, một con cua nhỏ. Tất cả đã được luộc chín và cắm ba cây hương, mang ra treo ở gốc cây đa”. Lúc tôi lớn lên vẫn còn thấy, và, nhớ nhất ở gốc cây này còn là nơi mà các ông Táo bị bể, hư hỏng, người ta cũng bỏ nơi ấy, chứ không vứt bừa bãi. Rõ ràng, ý thức về “ông bếp/ ông Táo” có một vị trí thiêng liêng trong tâm thế người Việt xưa.

Mà này, nhắc đến gì thì nhắc, quên gì thì quên, không thể không nhắc đến chợ Cồn, tôi yêu da diết đến nỗi từng nhắc lại kỷ niệm của ngày tháng từ nơi xa về quê nhà ăn Tết: Dẫn tôi về nguyên đán/Bất chợt một nhành mai/Huy hoàng như ánh sáng/Ngồi xuống ngã tư đường/Chợ Cồn tô cháo trắng/Ngon như là quê hương”.

Nơi này, những năm 1960, bà ngoại tôi có thời gian bán thuốc rê Cẩm Lệ, mẹ và các dì tôi bán vàng. Anh tôi kể, trong một lần được bà ngoại dẫn ra chợ Cồn vào dịp Tết, ngay khu đất trống có thời gian làm bến xe Đà Nẵng: “Tôi nghe tiếng nhạc sôi động xập xình và thấy một chiếc xe con cóc với đầy màu sắc sặc sỡ, đang xình xịch chạy tới. Trên xe mấy đứa nhỏ trạc tuổi tôi nói cười vui vẻ. Ca-bin xe là một hình thù con cóc lớn, kéo theo nó là mấy dãy ghế màu sắc tươi vui, xanh đỏ vàng tím. Còn có anh hề nữa chớ, cái lỗ mũi bự ơi là bự, đỏ chét, hoa tay múa chân vui ghê.

Tôi đòi bà cho đi xe. Bà bồng tôi ra xe, giao tôi cho anh hề, dặn khi mô xe quay lại thì cho tôi xuống. A, anh hề là người soát vé. Tôi có được một chỗ ngồi trên xe. Xe chạy chậm lắm, nhìn ra đường thấy ba mẹ của mấy đứa ngồi trên xe vẫy vẫy tay chúng. Thiệt là vui mắt. Anh hề vừa làm công việc soát vé vừa làm trò hề cho bọn tôi xem. Anh nhảy xuống xe, rồi giả đò như chạy không kịp chiếc xe, anh chạy theo như muốn hụt hơi, cuối cũng anh cũng nhảy lên được, hai tay bu vào thành xe, hai chân chụm lại, cong người xuống ngoáy ngoáy cái mông, tôi thấy chỗ mông của ảnh rách một miếng, bọn trẻ con chúng tôi khoái chí hả họng ra cười ha hả tít mắt.

Rồi cuộc đi chơi của tôi cũng đến hồi kết, chiếc xe con cóc chạy quay vòng lại chỗ bà tôi, anh hề đến chỗ tôi vòng tay, nói rằng: “Bây giờ xe đã đến bến, xin mời em “rờ a ra”, xờ uông xuông “sắc” xuống, vờ ê vê “huyền” về, ngờ u ngu “ngã” ngũ, ủa quên, lộn lộn: “hỏi” ngủ. Tôi lại được cười nắc nẻ một lần nữa. Anh hề bồng tôi trả lại cho bà ngoại tôi. Ôi chu choa một chuyến đi kỳ thú. Tôi không bao giờ quên”.

Chi tiết thú vị này, gần đây khi đọc facebook của nhà báo Nguyễn Đình Xê, tôi biết, anh cũng nhắc đến với tất cả sự trìu mến.

3. Khi con người ta viết và nhớ về ngày tháng xa xưa đó, bất kỳ ai cũng tâm tình thân thương, trìu mến bởi kỷ niệm, hình ảnh đó đã gắn sâu vào trong ký ức. Không phai. Xuân này, thả hồn mơ mộng về Đà Nẵng với vài dấu vết của ngày xửa ngày xưa âu cũng là lúc “ôn cố tri tân”. Để làm gì? Để gắn bó lòng mình với quê nhà nhiều hơn nữa.